Vân tay là một điều kỳ diệu mà cả các học giả phương Đông lẫn phương Tây đều cố gắng giải mã. Với khả năng liên hệ trực tiếp từ vân tay đến não bộ , Khoa học sinh trắc vân tay ra đời và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới
Sự hình thành khoa học sinh trắc vân tay
Khoa học sinh trắc vân tay (Dermatoglyphics) là nghiên cứu về cấu trúc của các gờ biểu bì trên một số bộ phận cơ thể, cụ thể là ngón tay. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại: derma = da, glyph = chạm khắc.
Các mô hình da bắt đầu phát triển ở tuần thứ 10 của thai kỳ và hoàn thiện vào tuần thứ 24. Dấu vân tay của cả hai bàn tay không có cái nào giống nhau và tồn tại suốt đời trừ khi lớp hạ bì bị tổn thương. Chúng chủ yếu được kiểm soát bởi di truyền và có thể được sử dụng trong chẩn đoán các dị tật bẩm sinh. Tính độc đáo của vân tay đã khiến việc các nhà khoa học dành rất nhiều nghiên cứu để phân tích tiềm năng của chúng. Trong quá trình phát triển, các nếp nhăn não khác nhau phát triển và được phản ánh trên dấu vân tay, chủng đại diện cho các vùng khác nhau của não và thường được sử dụng trong bài phân tích trí thông minh. Một số cha mẹ đã bắt đầu phân tích dấu vân tay của con cái họ ngay từ khi còn nhỏ để hiểu được tính cách bẩm sinh và tiềm năng học tập của chúng về mặt cá nhân, giáo dục hoặc sở thích và định hướng nghề nghiệp.
Lịch sử khoa học sinh trắc vân tay
Bắt nguồn của khoa học sinh trắc vân tay từ sự tò mò của con người trong lĩnh vực da liễu bắt nguồn từ nhiều thế kỷ khi người Trung Quốc sử dụng lòng bàn tay để xem bói. Cũng trong khoảng thời gian đó, người Ấn Độ cổ đại tin rằng sự hiện diện của mười con chó xoáy định mệnh một người trở thành Chakravarti (có nghĩa là “một vị hoàng đế”)
Vào năm 1684, một bác sĩ uyên bác và khéo léo, Nehemiah Grew, đã công bố mô tả đầu tiên về các gờ biểu bì tạo nên các hoa văn đặc trưng khi in hình dáng các đầu ngón tay ra. “Vô số đường gờ nhỏ có độ lớn và khoảng cách bằng nhau, và ở khắp mọi nơi chạy song song với nhau”. Grew cũng chú ý việc các dấu vân được sắp xếp thành “hình elip” và “hình tam giác”. Vào năm sau đó năm 1686, Malpighi đã đưa ra một mô tả tương tự trong De Externo tactus organo. Vvào năm 1823, Purkinje, trong một luận án, một lần nữa được viết bằng tiếng Latinh, đã mô tả chín kiểu hoa văn trên ngón tay.
Tuy nhiên, nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về toàn bộ dấu vân tay được thực hiện bởi Galton (1892) vào khoảng năm 1890. Mối quan tâm ban đầu của ông là về giá trị của dấu vân tay để nhận dạng cá nhân, vì vân tay tồn tại không đổi trong suốt cuộc đời. Ông là người đầu tiên nghiên cứu các mô hình da theo phân loại các nhóm chủng tộc. Phương pháp này được xây dựng và cải tiến bởi Sir Edward Richard Henry để xác định tội phạm. Khi nhận ra rằng tính độc nhất của dấu vân tay có thể đánh giá được sự biến đổi của con người, và nghiên cứu vân tay càng được sử dụng rộng rãi trong nhân chủng học, y học và di truyền học.
Trong nhiều năm, nhiều bằng chứng cho thấy rằng các mẫu dấu vân tay được xác định bởi tính di truyền. Năm 1950, Cherrill xuất bản một bài báo về dấu vân tay và bệnh tật. Từ kết quả phân tích bàn tay của những tử thi đã phân hủy trong thời gian dài, ông nhận thấy các cơ và da của tay trái có dấu hiệu phân hủy nhiều hơn bên phải. Điều này đặt ra nghi vấn về cách xã hội đang có sự vận dụng thiếu cân bằng giữa não trái và não phải. Từ đó khoa học sinh trắc vân tay dần được áp dụng vào cuộc sống.
Hình thái học của khoa học sinh trắc vân tay
Khoa học sinh trắc vân tay thật ra không khó như bạn nghĩ. Bề mặt của da và các cấu trúc sâu hơn của vân tay cho thấy vân tay có các vạch tuyến tính khác nhau. Hơn 35 tên gọi khác nhau, nhiều từ đồng nghĩa, đã được áp dụng cho các đường vân, các định nghĩa liên quan đến các hệ thống rãnh, các vùng nhô cao, hướng kéo dài, các đường thần kinh và dấu hiệu nhiễm trùng dần được đặt tên riêng. Một số đường vân biểu hiện rõ ràng trên da luôn nguyên vẹn, một số khác chỉ xuất hiện sau một số biện pháp can thiệp, chẳng hạn cắt tay.
Từ đó, Cummins và Midlo đã phân loại các loại hoa văn khác nhau trên đầu ngón tay và đặt tên là: chủng vân tay Arch, Loop và Whorl.
Thông tin thêm về khoa học sinh trắc vân tay và chủng vân tay
Việc biết được khả năng và sở trường của con cái trong giai đoạn mầm non là những cơ sở đầu tiên định hướng cho tương lai. Cũng chính vì vậy mà nếu ba mẹ biết được thêm về bộ môn khoa học sinh trắc vân tay để biết được con mình thuộc chủng vân tay nào, càng được các bậc cha mẹ quan tâm và tìm hiểu vì tính ứng dụng trong việc nuôi dạy và định hướng con trẻ.